Cách đây tầm chục năm, người viết từng chứng kiến sự tranh cãi giữa Cục hàng hải và Hải quan về khái niệm “cảng” trong một văn bản pháp luật của hải quan ban hành được cán bộ hải quan ở Cái Mép diễn giải thành mỗi bến cảng ở Cái Mép là một cảng khác nhau. Thật ra thì nhiều người kể cả trong ngành Logistics vẫn không phân biệt được các khái niệm này. Thậm chí, trong tiếng Anh thì còn nhiều khái niệm liên quan đến cảng hơn nữa khiến người ta rất “rối não”. Nội dung bài viết này sẽ bàn về các khái niệm của những harbour, port, terminal, berth, wharf, quay đó trên cơ sở đối chiếu với các khái niệm về cảng ở Việt Nam.
Harbour (hay harbor trong tiếng Mỹ) về cơ bản là một vùng nước được che chắn bởi các rào chắn tự nhiên như đất đá hoặc các rào chắn nhân tạo như đê chắn sóng. Vùng nước này có thể cung cấp cho tàu nơi neo đậu an toàn và cho phép chuyển hàng hóa và / hoặc hành khách giữa tàu và bờ. Harbour có thể được hình thành một cách tự nhiên hoặc nhân tạo.
Harbour tự nhiên thường được bao quanh bởi đất liền, tạo thành một vịnh khiến nó trở thành điểm neo đậu tốt cho tàu bè. Ngoài các harbour dọc các bờ biển, các Harbour tự nhiên cũng có thể được tìm thấy tại các vịnh hẹp, vịnh nhỏ, ven hồ, đầm phá và cửa sông. Ở Việt Nam với hơn 3000km đường bờ biển, có khá nhiều Harbour tự nhiên như: vịnh Cam Ranh, vịnh Vân Phong, đầm Thị Nại, vịnh Đà Nẵng, vịnh Chân Mây, vịnh Cửa Lục, hạ lưu sông Thị Vải,…

Vì các Harbour tự nhiên không phải lúc nào cũng chính xác như ý muốn, con người đã bắt đầu cải tạo tự nhiên. Các Harbour nhân tạo ra đời phát triển và cải thiện hiệu suất thương mại. Ngày nay, các Harbour nhân tạo có thể được tạo ra ở bất kỳ đâu dọc theo bờ biển nối với các khu công nghiệp trên đất liền. Đặc điểm nổi bật của harbour nhân tạo là đê chắn sóng (breakwater), bờ kè biển (sea walls) và các dạng rào chắn khác được thiết kế để bảo vệ Harbour khỏi bão và giảm mức thủy triều.
Nhưng tất nhiên việc tạo ra một Harbour không chỉ đơn giản như vậy. Một Harbour cần phải đủ độ sâu để cho phép tàu ra vào mà không bị mắc cạn đồng thời cung cấp đủ không gian cho tàu quay đầu và vượt qua nhau. Công suất tàu cập cảng càng lớn thì Harbour đó càng phải sâu. Ở nước ta hiện nay ngày càng xuất hiện nhiều những Harbour nhân tạo mà tiêu biểu là khu vực cảng nước sâu Lạch Huyện, cảng Sơn Dương hay đảo Trường Sa Lớn,….
Một số Harbour cũng có thể được sử dụng như một vùng an toàn cho những con tàu đang tìm nơi trú ẩn trong thời tiết xấu hoặc các yếu tố cực đoan mà không phải là một khu vực hoạt động, khai thác thương mại, kiểu như “vũng neo đậu tàu thuyền” trong tiếng Việt.

Port là gì?
Khi những Harbour được xây dựng và sử dụng cho mục đích thương mại như bốc dỡ hàng hóa, hành khách hoặc bất cứ thứ gì tạo ra doanh thu thì sẽ được gọi là Port. Nói một cách ngắn gọn, Port là một nơi trong Harbour mà tàu có thể cập bến với mục đích thương mại để bốc dỡ hàng hóa hoặc vận tải hành khách hoặc thực hiện các yêu cầu của tàu. Tuy nhiên, đôi khi người ta vẫn dùng Harbour và Port thay thế cho nhau.
Port cũng là nơi giao thoa giữa nước và đất liền, do đó có các đoàn tàu, xe tải ra vào cảng với mục đích giao hàng (hàng xuất khẩu lên tàu) hoặc lấy hàng (từ hàng nhập khẩu xuống tàu). Ở nước ta, dù có bờ biển rất dài nhưng những Port lớn nhất lại thường nằm trên các con sông như: khu bến cảng Cái Mép – Thị Vải, cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái, cảng Hải Phòng,.. Gần đây thì có khu bến cảng Lạch Huyện ở vùng cửa sông Chanh đổ ra vịnh Bắc Bộ. Các Port ở biển đáng chú ý thì chủ yếu tập trung ở miền Trung như: Nghi Sơn, Vũng Áng, Cửa Lò, Chân Mây, Tiên Sa, Vĩnh Tân,..
Port đóng một vai trò rất quan trọng trong thương mại toàn cầu, là “vốn liếng” lớn cho nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Hầu hết các loại hàng hóa trên thế giới được vận chuyển thông qua các Port và một số Port được phân loại dựa trên hàng hóa mà nó xử lý. Ví dụ một số Port chuyên dụng như: cảng than Newscalte (Anh), cảng ngũ cốc New Orlances trên sông Mississippi (Mỹ), cảng quặng Port Hedland (Úc), cảng dầu thô Ras Tanura (Saudi Arabia),…

Terminal là gì?
Từ Terminal này có thể quen thuộc đối với nhiều người dù không phải trong ngành Logistics / Shipping, bạn nghĩ xem hay gặp nó ở đâu? Đúng rồi, Terminal thường hay gặp ở các sân bay, với nghĩa dịch qua tiếng Việt là “nhà ga” và một sân bay có thể có một hoặc nhiều Terminal. Trong hệ thống cảng biển, Terminal cũng tương tự như vậy.
Chúng ta biết rằng phần lớn các Port trên thế giới đều tiếp nhận nhiều loại hàng hóa khác nhau. Trong các Port đó sẽ có các khu vực được phân chia ranh giới đối với từng loại hàng, mỗi khu này được gọi là Terminal. Trong một Port có thể có các terminal sau: Container Terminal, Ro-Ro Terminal (hay Terminal Xe hơi), Oil & Gas Terminal, Bulk Cargo Terminal (Terminal hàng rời), Multi-Purpose Terminal (Terminal hàng tổng hợp),.. Hoặc tuy cùng xử lý một loại hàng hóa nhưng do quy mô Port, vẫn có thể chia thành các terminal khác nhau. Ví dụ như trong cảng Cát Lái hiện chia thành 3 terminal (terminal A, B, C) dù cùng là container terminal.

Berth / Quay / Wharf là gì?
Quay hay Wharf (cầu cảng) là cấu trúc mặt phẳng được xây dựng nhô ra ngoài mép nước của cảng để lắp đặt các thiết bị xếp dỡ và là nơi tiếp đỡ mạn tàu khi tàu neo đậu tại cảng. Tùy vào cấu trúc thiết kế, một số cảng Quay / Wharf có thể bao gồm cả phần kho nhà kho có mái che, khu vực lưu trữ hàng hóa mở, v.v. là nơi hàng được dỡ ra, chất hàng và lưu trữ. Thuật ngữ Quay hay được dùng ở Anh và các nước khối Thịnh vượng chung trong khi thuật ngữ Wharf được ưa chuộng tại Mỹ.
Tại mỗi cảng, người ta chia Quay / Wharf ra thành các đoạn theo chiều dài nhất định đủ để tiếp nhận một con tàu có chiều dài tương ứng với thiết kế của cảng và gọi nó là Berth (bến). Nói cách khác, Berth là vị trí neo đậu của một con tàu tại cảng, chia theo chiều dài của cầu cảng (Quay / Wharf). Như vậy, một Quay / Wharf có thể có một hoặc nhiều Berth.

Cảng biển tại VN là gì?
Theo Bộ luật hàng hải Việt Nam thì “Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng, được xây dựng kết cấu hạ tầng, lắp đặt trang thiết bị cho tàu thuyền đến, rời để bốc dỡ hàng hóa, đón trả hành khách và thực hiện dịch vụ khác. Cảng biển có một hoặc nhiều bến cảng. Bến cảng có một hoặc nhiều cầu cảng.”. Trong đó thì “Vùng đất cảng là vùng đất được giới hạn để xây dựng cầu cảng, kho, bãi, nhà xưởng, trụ sở, cơ sở dịch vụ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước, các công trình phụ trợ khác và lắp đặt trang thiết bị.” và “Vùng nước cảng là vùng nước được giới hạn để thiết lập vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch, luồng hàng hải và xây dựng các công trình phụ trợ khác.”.
Như vậy, khái niệm Cảng biển của VN đã bao gồm cả Harbour và Port và thậm chí trên thực tế, Cảng biển (kiểu VN) được quy hoạch gần như một khu vực hành chính về cảng. Quyết định số 804/QĐ-TTg ngày 8/7/2022 công bố danh mục cảng biển Việt Nam gồm 34 cảng biển và toàn bộ tên Cảng biển tương ứng với tên tỉnh thành địa phương: cảng biển Hải Phòng, cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu, Cảng biển Quảng Ninh, Cảng biển Thanh hóa, Cảng biển Nghệ An, Cảng biển Hà Tĩnh, Cảng biển Đà Nẵng, Cảng biển Quảng Ngãi, Cảng biển Bình Định, Cảng biển Khánh Hòa, Cảng biển TP Hồ Chí Minh, Cảng biển Đồng Nai, Cảng biển Cần Thơ,…. Nói cách khác, mỗi tỉnh thành chỉ có tối đa một cảng biển.
Bến cảng, cầu cảng tại VN là gì?
Theo Bộ luật hàng hải Việt Nam thì “Bến cảng là khu vực bao gồm vùng đất và vùng nước thuộc một cảng biển, được xây dựng cầu cảng, kho, bãi, nhà xưởng, trụ sở, cơ sở dịch vụ, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước, vùng nước trước cầu cảng, luồng hàng hải và các công trình phụ trợ khác. Bến cảng có một hoặc nhiều cầu cảng.“. Theo Quyết định số 323/QĐ-BGTVT ngày 29/3/2024 thì VN có 298 bến cảng thuộc 34 cảng biển kể trên.
Như vậy, “Bến cảng” ở VN sẽ tương ứng với terminal ở các cảng trên thế giới. Tuy nhiên, do đặc thù ở VN, Bến cảng sẽ không dễ hình dung như những gì đã trình bày ở trên về Terminal bởi các Bến cảng ở cùng một Cảng biển ở VN có thể rất rời rạc nhau chứ không liền lạc cùng một khu vực. Ví dụ như tại Cảng biển TP.HCM sẽ có: Bến cảng Tân Cảng Cát Lái ở Quận 2, Bến cảng Hiệp Phước ở Nhà Bè, Bến cảng Sài Gòn ở quận 4,… Trước kia, các Bến cảng ở VN thì đều lấy tên tiếng Anh với chữ Port (Cát Lái port, Sài Gòn port, Lotus port,..) nhưng hiện nay, nhiều Bến cảng đã đổi sang Terminal, nhất là các Bến cảng container.
Cầu cảng thì đơn giản rồi, nó cũng tương tự như Quay / Wharf thôi. Bộ luật Hàng hải Việt Nam định nghĩa “Cầu cảng là kết cấu cố định hoặc kết cấu nổi thuộc bến cảng, được sử dụng cho tàu thuyền neo đậu, bốc dỡ hàng hóa, đón, trả hành khách và thực hiện các dịch vụ khác.”.
Khu bến cảng, cụm bến cảng là gì?
Khu bến cảng hay cụm bến cảng không phải là một khái niệm chính thức trong Bộ luật hàng hải mà được gọi dựa trên phân bố thực tế của nhiều bến cảng tập trung gần nhau. Chẳng hạn như Khu bến cảng Cái Mép – Thị Vải với hàng chục Terminals các loại (container, hàng tổng hợp, hàng ngũ cốc, hàng hóa chất,..) nối liền với nhau dọc sông Thị Vải.

Hy vọng bài viết trên đã giúp bạn đọc hình dung được về những khái niệm “cảng” khác nhau ở Việt Nam và trên thế giới. Nếu bạn cần trao đổi thêm, cần tư vấn hay có nhu cầu về dịch vụ Logistics vui lòng bình luận ở dưới hoặc liên hệ ngay với đội ngũ chuyên gia của chúng tôi để nhận được hỗ trợ sớm nhất.

Tôi đã làm việc trong ngành Logistics năng động trong hơn hai thập kỷ, kênh qua nhiều lĩnh vực Shipping, Khai thác cảng, Forwarding, vận tải hàng dự án, hàng siêu trường siêu trọng,.. tại các công ty của Đức, Nhật, Hàn Quốc và Việt Nam.
Thông qua vị trí admin của website avttrans.vn, tôi muốn chia sẻ lại những kiến thức, kinh nghiệm của mình hay đơn giản là ghi nhận những nhận định của mình về ngành nghề Logistics.
Khám phá thêm từ AVT Multi Trans
Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.